Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Xã tắc đàn và cơ mơ mẫu khoa học.

Tứ thời kỳ cốc)

Xã tắc đàn và cơ mơ khoa học

Biết tin cuốn sử nào đây khi mà xã đàn và xã tắc đàn về nghĩa có chỗ giao nhau nhưng cũng nhiều chỗ xa nhau lắm.

Tuy nhiên. Tây Sơn. Còn nếu là xã tắc đàn thì trí hình dong thả giàn bay bổng vì ai ai cũng thục câu thơ nhà Trần sau này: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã” hoặc câu văn Nguyễn Trãi. Địa danh Xã Đàn (chẳng thể khảo rõ có từ thời nào); dư luận dân gian hiện đại về cái đàn này trên không gian Xã Đàn.

Dân làm phản. Tại sao vua sau không tiếp bước tiên vương cái công việc quan trọng đó nhỉ? Hay nó không quan yếu như ta nghĩ?.

Cầu thần nông… nhiều lắm. Giấc mơ vẫn tiếp chuyện nhưng. Dân tộc. Vì thần nông cáng đáng việc mùa màng nên người ta dùng tế thần nông. Nhưng mơ mộng ai cấm ta đừng. Về việc vua Lý Thái tông năm 1048. Thật khó khăn cho công việc đi tìm. Huyện. Một sự bàn luận khoa học.

Nó khác với “đài” là phải xây dựng khá nhất định. Ngoài thành mà bị lụt lội (có khi 2 tháng ròng như năm 1053) thì ở chỗ thấp. Đến Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT). Tài liệu trung đại biên chép trước đời Lý về vấn đề này không thiếu. Hoặc là chỗ đất người ta đắp tạm nên.

Có nghĩa là họ không tu bổ tu bổ. Gọi là “xã đàn” cả. Tự điển chú thích không thiếu. Tài liệu ghi những vấn đề can hệ không thiếu. Tìm dấu tích cách đây cả ngàn năm- khó thay! Chính sử chép về nhà Lý dài mông mênh nhưng độc nhất chỉ mỗi chỗ bé xíu đó là có chữ “xã đàn” (VSL) hoặc “xã tắc đàn” (ĐVSKTT) mà thôi.

Khi hai chữ này đi với “đàn” thì nó có nghĩa cụ thể. Đi tìm là tìm bằng cớ đất và gỗ. Thời Lê. Cứ coi “xã đàn” cũng là “xã tắc đàn” đi. Đọc một văn bản cổ cũng như “đọc” một hố khảo cổ. Triều đại là một kiểu nói phiếm chỉ. Ông Viện trưởng Viện khảo cổ học hiện. Và ta đã gặp. Khuôn khổ. Trong viện bình Ngô : “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”.

Lập “xã đàn” ở ngoài cửa Trường Quảng để làm nơi bốn mùa cúng tế. Triều đại. Không phải là đất và gỗ. Trời đất! Đã ngót 1000 năm trôi qua. Giờ đi tìm một chỗ đất tạm như vậy thì khó biết dường nào. Ngữ pháp là tương quan di vật. Một dấu hiệu di tích. Hà Nội 30-4-2013. Tuyệt đối không lóe lên ngó nào là họ. Đi tìm lời giải về Xã tắc.

Cùng hướng tới một mục đích tốt đẹp. Nó như biến khỏi tinh thần của giới sử học phong kiến vốn cẩn trọng với việc vua làm. Đóng gỗ xuống gạch chứ làm sao nữa. Dù ta biết rằng. Nó hoặc là chỗ đất người ta dọn sạch rưới nước hoặc rượu. Cấp số nhân của mộng mơ. Ghi chép trong Việt sử lược (VSL). Đại Việt sử kí toàn thư ; 2.

Hoặc là chỗ đất người ta đóng gỗ cừ để cúng tế hoặc diễn lễ. Cầu mưa. Cách thức bảo vệ lại phải rất thích hợp với giá trị của những dấu hiệu di tích đó. Khách quan là cần thiết. Nhiều khi cũng làm nên những phát kiến thần tình. Ngay trước 1048. Bốn mùa cầu đảo cho mùa màng” (Lập xã tắc đàn vu Trường Quảng môn ngoại. Ngoại cảnh được ngũ quan hấp thu. Theo tôi. Từ vựng là di vật. Mơ mộng cũng là căn tính của nghệ sĩ.

Mà là gạch và một số thứ khác. Lê. Là người đọc sử kí trung đại. Nếu gặp gạch thì sao? Thì cứ coi là nền tảng của nó vậy. Xã tắc đàn và đàn… là gì?. Hương. Những tác động nội căn. Kinh sư đều có thể lập ra cái chỗ để tế ông công. Thanh Trần.

Nhà Lý trọng nông lắm. Nhưng tình thế “tay chọc con mắt” không phải là chưa từng xẩy ra. Nhưng thôi. Đây rồi. Lấy cái nghĩa phiếm chỉ văn chương làm kim chỉ nam mà đi tìm cái sự vật thật của sử kí chép. Tắc thần.

Tác phẩm mang nhiều vết tích đời Trần. Đã có thông báo vững chắc Lý công Uẩn đã tế xã thần. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hùng Vĩ. Nguyễn để mà qui chiếu ngược. Châu. Đắp/đóng nó lại lần nào. Qui mô. Ta có thể khảo được

Xã tắc đàn và cơ mơ khoa học

Hai câu biên chép trong Việt sử lược. Tắc đàn là cái đàn tế thần lúa. Thì cái xã đàn kia bỗng chốc biến thành “xã tắc đàn”. Mất thứ tự trị an thời gian dài.

Ta có thể tham khảo để hiểu những câu ghi trên của VSL và ĐVSKTT. Dù dưới dạng nào cũng cấp thiết được nghiên cứu và có cách bảo vệ. Thành ra là “lập đàn xã tắc ở ngoài cửa Trường Quảng. Không thể hiểu nó là nơi tế trời đất hoặc quốc gia được. Cái đó gọi là cái lẽ “tri túc” (biết dừng khi đã đủ). Có phải thế này không? Là vì sau khi “lập đàn”. Lụt lội. Không rõ cầu cúng thế nào mà 7 năm còn lại đời vua Lý Thái tông.

Các ngữ đoạn. Địa danh Xã Đàn còn đó. Tạo nên một cú hích cho lòng dân vốn kiêu hãnh với quê hương mình. Không ai khi gặp những thông báo như trên của hai cuốn sử căn bản và quan trọng nhất lại không đặt ra những câu hỏi: xã thần. Xã-Tắc cơ mà. Công việc quan trọng hàng đầu của thiết chế phong kiến trước đây. Còn các tự điển đều hợp nhất gọi đó là: Thời xưa. Nhưng còn “đàn” là gì vậy? Ta có thể lấy một loạt “đàn” sau này của Nguyên.

Tiên sư. Xã thần là thần ông địa (ông địa. Việc không chỉ ở dân. Cùng trong một thể chế. Thế thôi. Không! Hãy cứ nhòm. Hộ trạch…); tắc thần là thần lúa.

Hai chữ “xã tắc” (nghĩa bóng chỉ quốc gia) có khi đã trở thành chiếc kính lúp soi chiếu quá cố làm nó nhóng nhánh hào quang và đến lượt ta dùng hào quang đó để hoạch định công việc tương lai. Khi nhận ra thì câu chuyện đã trở thành quá phức tạp. Một địa điểm có kiến trúc mà hoàng đế hay vua dùng để tế giao.

Hậu chủ. Tứ thời kỳ cốc). Tế thì phải có “đàn”. Đó là những trang sử kí u buồn và tao loạn. Khiến cho công trình hoãn thi công hằng 2 năm ròng. Chợt tắt đỏ khi người ta ngủ tạo ra mơ mộng. Dự án xây dựng công trình giao thông dân sinh với di vật khảo cổ học đào được lần này làm ta nhớ đến trường hợp mộ Hán Dương Lôi được nghi sai là mộ tổ nhà Lý năm nào.

Đất biên cương Đại Việt bị lấn chiếm… nên các vua sau bỏ nó đi. Sau cái năm 1048 lập đàn ấy. Cầu mùa. Tháng 3. Thần kinh lưu tích. Xã đàn Sự dị đồng giữa chủ trương.

Thế mới khó cho cuộc đi tìm chứ. Mà còn ở ít ra 3 nhà sử học trước đó có bài viết giấy trắng mực đen hẳn hoi (nay còn). Còn dùng lại đàn này một lần nào nữa. Công nhận Di tích ngay để giữ gìn dấu hiệu.

Văn cảnh là các lớp di vật… Ta thấy ở đây. Nếu ghi là “xã đàn” thì dù là người giàu mường tượng cũng khó mà liên hệ trường nghĩa của nó với nhà nước. Minh. Những thứ vốn rất dễ hỏng nát cùng thời gian. Hậu thổ. I Vị trí Đàn Xã tắc. Tuyệt nơi khác chẳng thể có mấy chữ này. Từ mộng mơ.

Nhưng mộng mơ vẫn giục ta đi. Trong đó. Lúc đó đã từng bị dân chỉ trích oan. Thần mùa màng…; xã đàn là cái đàn để tế ông địa thần. Còn từ vựng “xã tắc” để chỉ quốc gia. Chỉ thấy nước to. Xã tắc thần. Xã đàn. Cầu tạnh. Cầu được mùa (Lập xã đàn vu Trường Quảng môn ngoại. Trong nhiều trường hợp. Chậm tiến độ tổn hao hơn nhiều lần hoang phí hoặc bôi trơn.

Nó rất khác với Nam Giao đàn. Ông công. Và thế là ta giữ lấy nó như giữ giấc mơ rất mộng mơ của mình. Ở đây. Trí thức vì họ là “nhân sinh thức tự đa ưu hoạn” như Tô Đông Pha từng viết. Động đất. Ông công. Ý tưởng tìm di tích xã tắc đàn kiên cố nẩy sinh từ 3 nguồn: 1. Thần ngũ cốc. Hoàn tất đời Lê. Cuộc đi tìm Đàn xã tắc có đủ nguyên tố của một cơn mộng mơ. Tốn kém công quĩ muôn nghìn.

Đất và gỗ chịu sao thấu. Nhưng khổ nỗi là họ cầu nơi khác với kiểu khác với sự cầu ở xã tắc đàn kia. Kiện tụng. Độ chập tình cờ của vô thức làm lóe sáng một định đề tinh thần. Dễ tính một tí.

Từ thôn. Xã tắc đàn là từ mở mang chỉ chung việc tế hậu thổ và mùa màng. Nhưng thôi ta cứ mộng mơ. Mà này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét